Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương bi
Kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ
(27/7/1947 – 27/7/2017)
___
I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của Ngày Thương binh Liệt sĩ
1. Hoàn cảnh ra đời
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay
là nước CHXHCN Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay lại
xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần “.... thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta
đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc
kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sĩ đã ngã
xuống, hy sinh một phần xương máu trên các chiến trường. Với truyền thống
đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, Đảng, Chính phủ, Bác
Hồ và nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến sĩ và đồng bào
đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), rồi
đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi thành Hội giúp
binh sĩ bị thương. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là
Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Ngày 28-5-1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng
tại Nhà hát Lớn Hà Nội để kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp đỡ các
chiến sĩ bị thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.
Ngày 17-11-1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên Hiệp Quốc dân Việt Nam đã
tổ chức lễ xung phong “Mùa đông binh sĩ”, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông binh
sĩ” trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19-12-1946, theo Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng dậy
kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương
và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sĩ, nhất là những
chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quyết định với
những chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần ổn định
đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ.
Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy
định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy
đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với
cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6-1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc,
Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam,
Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để
bàn về công tác thương binh, liệt sĩ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn
một ngày nào đó làm ngày Thương binh Liệt sĩ. Tại cuộc họp này các đại biểu đã
nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh toàn quốc”. Từ đó hàng năm
cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc
nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ.
Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh
càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sĩ.
Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh
toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” để ghi nhận những hy sinh lớn lao
của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày
8-7-1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hằng năm
chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” của cả nước.
Mỗi năm cứ đến “Ngày Thương binh, Liệt sĩ” nhất là vào dịp kỷ niệm năm
tròn, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại tổ chức nhiều hoạt động
thiết thực, đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công
với cách mạng.
2. Ý nghĩa
Ngày Thương binh Liệt sĩ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã hội sâu
sắc, đó là:
- Truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đối với những người đã hi sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và
thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; qua đó phát huy tinh thần yêu
nước, củng cố và bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn.
- Tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ, thương binh và người có công; khẳng
định sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho
hạnh phúc của nhân dân là vô giá. Việc chăm sóc thương binh, bệnh binh,
gia đình liệt sĩ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các
cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi người, của
thế hệ hôm nay và mai sau.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trân trọng đánh giá cao những cống
hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ đối với Tổ quốc; đồng
thời cũng luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công
dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế
hệ cách mạng đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách
mạng.
II. Một số thành tựu nổi bật trong công tác thương binh, liệt sĩ và
người có công với cách mạng 70 năm qua
1. Xây dựng và thực hiện thống nhất trong cả nước một hệ thống chính
sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ,
người có công với cách mạng
- Kể từ Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày
16/2/1947 đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”
đến nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công với
cách mạng đã được nghiên cứu xây dựng, ban hành tương đối toàn diện, đầy đủ và
kịp thời, bảo đảm chất lượng để từng bước cụ thể hóa đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước, là cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện đồng bộ các
chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân; cơ bản đáp ứng
yêu cầu đề ra.
- Nhiều vấn đề bất hợp lý do lịch sử để lại cũng như vấn đề mới nảy sinh trong
quá trình chuyển đổi cơ chế và những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, như
vấn đề xác nhận liệt sĩ, thương binh; chính sách ưu đãi đối với thanh niên xung
phong, những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chính sách ưu
đãi về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, chế độ trợ cấp
đối với một số đối tượng người có công với cách mạng được các cấp, các ngành
quan tâm, giải quyết hiệu quả.
- Việc xác nhận và giải quyết chế độ ưu đãi đối với người có công đạt được
kết quả tích cực. Đến nay, toàn quốc đã xác nhận khoảng 9 triệu người có
công, trong đó:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945: gần 9.000 người.
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01-01-1945 đến trước tổng khởi nghĩa
19/8/1945: 16.500 người.
+ Liệt sĩ: gần 1.2 triệu người; thân nhân liệt sĩ gần 500.000 người.
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng: trên 117.000 người.
+ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động: gần 1.300 người.
+ Thương binh và người hưởng chính sách như thương binh: gần 600.000 người;
thương binh loại B: trên 40.000 người.
+ Bệnh binh: gần 185.000 người.
+ Người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học: gần
312.000 người.
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày: gần
111.000 người.
+ Người có công giúp đỡ cách mạng: 1.897.000 người.
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
Quốc tế: gần 4,1 triệu người.
- Hiện cả nước có trên 1,4 triệu người có công và thân nhân đang hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng; qua rà soát, cơ bản người có công đã được hưởng đầy đủ các
chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Theo kết quả rà soát năm 2014 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong số
2.070.842 đối tượng được rà soát có 1.982.769 trường hợp (chiếm 95,75%) đã
hưởng đủ chế độ; chỉ có 86.201 trường hợp, chiếm 4,16% kê khai là hưởng chưa
đầy đủ; 1.872 trường hợp, chiếm 0,09% hưởng sai chính sách.
2. Phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có
công với cách mạng phát triển sâu rộng từ Trung ương đến địa phương và
đã đạt được hiệu quả thiết thực, thể hiện tình cảm, trách nhiệm và
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
- Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã tích cực triển khai và thực
hiện có hiệu quả các phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sĩ và người có công bằng những việc làm thiết thực thông qua: Quỹ
“Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa, vườn cây tình nghĩa, sổ tiết kiệm
tình nghĩa, chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, phụng
dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Từ năm 2007 đến năm 2017, cả nước đã đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn, đáp
nghĩa” hơn 3.481 tỷ đồng, trong đó, quỹ Trung ương hơn 41,36 tỷ đồng, quỹ địa
phương hơn 3.440,4 tỷ đồng; xây dựng gần 90.000 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần
75.000 nhà tình nghĩa với tổng trị giá gần 12.200 tỷ đồng; tặng gần 159.000 sổ
tiết kiệm tình nghĩa trị giá gần 955.000 tỷ đồng.
Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, Chính phủ đã cấp cho các địa phương trên
2.450 tỷ đồng để hỗ trợ cho 80.000 hộ gia đình người có công khó khăn về nhà ở;
100% các mẹ Việt Nam anh hùng được các đơn vị nhận phụng dưỡng; 98% xã, phường
làm tốt công tác Thương binh - Liệt sĩ, 97% người có công với cách mạng có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức sống người dân nơi cư trú.
- Bản thân thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách, người có công
với cách mạng cũng nỗ lực phấn đấu vươn lên trở thành những tấm
gương tiêu biểu, điển hình nhân tố mới trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
3. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công
trình tưởng niệm liệt sĩ được chú trọng và đạt được kết quả tích cực
- Đảng, Nhà nước và quân đội đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, quy tập hài
cốt liệt sĩ. Nhà nước đầu tư nâng cấp các trung tâm giám định ADN của các bộ,
ngành nhằm đẩy nhanh việc xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.
- Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị đã tích cực trong việc phát
hiện, quy tập mộ liệt sĩ và ghi danh, ghi công liệt sĩ.
- Công tác thông tin, tuyên truyền phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập
hài cốt liệt sĩ đã tạo sức lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân.
- Bằng phương pháp thực chứng, phương pháp giám định AND, các cơ quan chức năng
đã quy tập, lấy mẫu hài cốt liệt sĩ, sinh phẩm thân nhân liệt sĩ, phân tích hàng
chục nghìn trường hợp, góp phần phục vụ tích cực cho công tác tìm kiếm hài cốt
liệt sĩ thời gian qua.
Thời gian qua, cả nước đã tìm kiếm, quy tập được 939.462 hài cốt liệt
sĩ; an táng tại 3077 nghĩa trang trong cả nước.
- Việc xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ được các
cấp, các ngành chú trọng và đã đạt được những kết quả cụ thể.
Hiện cả nước có 9.637 công trình ghi công liệt sĩ, bao gồm đài tưởng niệm, nhà
bia ghi tên liệt sĩ, nghĩa trang liệt sĩ. Nhiều công trình trở thành công trình
văn hóa, có giá trị về mỹ thuật, giáo dục truyền thống: Nghĩa trang Điện Biên
Phủ, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang Đường 9, Đền liệt sĩ Bến Dược,
Khu tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong tại ngã ba Đồng Lộc; Truông Bồn,
tỉnh Nghệ An...
III. Phát huy thành tựu đạt được, khắc phục hạn chế bất cập, tiếp
tục đẩy mạnh công tác thương binh, liệt sĩ và người có công với cách
mạng trong giai đoạn hiện nay
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác
định: “Thực hiện chính tốt chính sách chăm sóc người có công trên
cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà
nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên”.
Để đạt được mục tiêu này, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm
vụ giải pháp sau:
- Các cấp, các ngành cần chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách ưu đãi khác về kinh tế - xã hội đối với người có công, đặc biệt
quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho người có công
và con em của họ; giúp đỡ thiết thực về vật chất và tinh thần đối với các đối
tượng chính sách, nhất là đối tượng còn nhiều khó khăn để phấn đấu đến năm 2020
đạt 100% hộ người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của
cộng đồng dân cư nơi cư trú. Đồng thời, tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện
hệ thống các chính sách ưu đãi đối với người có công cho phù hợp với tình hình
của đất nước. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch mọi chính sách về người
có công.
- Làm tốt hơn công tác tu bổ, tôn tạo các nghĩa trang liệt sĩ và công tác tìm
kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xác định danh tính liệt sĩ, thông báo và tạo điều
kiện cho các gia đình người thân đến thăm viếng. Tiến hành sơ tổng kết, rút
kinh nghiệm, phát hiện và nhân rộng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến
trong công tác thương binh, liệt sĩ và người có công; qua đó thúc đẩy các phong
trào "Đền ơn đáp nghĩa", “Toàn dân chăm sóc người có công với nước” phát
triển rộng khắp, đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thiết thực; đồng thời
biểu dương những tấm gương thương binh, bệnh binh và người có công tiêu biểu.
- Đẩy mạnh và thực hiện tốt việc lập, xét duyệt hồ sơ thường xuyên; tập trung
giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công còn tồn đọng, nhất là những
hồ sơ đã được xác lập trong những giai đoạn trước đây nhưng chưa được xem xét
giải quyết do chưa bảo đảm thủ tục, coi đây là nhiệm vụ quan trọng.
- Tạo
mọi điều kiện thuận lợi để các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
người có công tiếp tục phát huy ý chí tự lực tự cường, phát triển sản xuất, cải
thiện đời sống và tham gia các hoạt động xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp
xây dựng quê hương đất nước với phương châm “Nhà nước, nhân dân và những người
được hưởng chính sách ưu đãi cùng phấn đấu”.
- Đẩy mạnh tuyên truyền truyền thống yêu nước và đạo nghĩa "Uống nước nhớ
nguồn" trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, làm cho mọi người
nhận thức sâu sắc và trân trọng tri ân công lao to lớn của các anh hùng - liệt
sĩ và những người có công với nước; biến nhận thức và tình cảm tốt đẹp đó thành
hành động thiết thực góp phần thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng.
NHT. Nguồn BTG Trung ương